Thống đốc: ‘Rủi ro lạm phát năm 2022 rất lớn’
Việc điều hành chính sách, theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, sẽ thận trọng vì những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng 2008-2009 và nguy cơ lạm phát cao trong năm tới.
Trao đổi tại nghị trường sáng nay (12/11), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho rằng, chính sách tiền tệ phải thực hiện hai nhiệm vụ chính là điều hành góp phần kiểm soát lạm phát và điều kiện kinh tế vĩ mô. và đảm bảo tính an toàn và khả năng chi trả của hệ thống. “Rà soát lại các công cụ chính sách trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ vào hai mục tiêu này, đồng thời đảm bảo cân đối lớn của vĩ mô”, bà Hồng nói thêm.
Với dư địa chính sách, Thống đốc cho rằng việc đảm bảo mục tiêu lạm phát năm 2021 dưới 4% là có thể đạt được, nhưng năm 2022, “rủi ro lạm phát có áp lực rất lớn”.
Khi kinh tế thế giới dần hồi phục, giá cả hàng hóa có xu hướng tăng, một số mặt hàng như xăng dầu tăng rất cao, nhiều nước phát triển đã ghi nhận mức lạm phát cao nhất trong lịch sử. Trong Châu mỹ, chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 6,2% so với cùng kỳ năm ngoái, cao nhất kể từ năm 1990. Lạm phát Nam Triều Tiên cũng lần đầu tiên vượt qua mức 3%, cao nhất kể từ năm 2012. Tại Châu Âu, giá năng lượng tăng vọt đã đẩy lạm phát của khu vực đồng euro trong tháng 9 lên mức cao nhất trong 13 năm.
“Với một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu là rất lớn”, Thống đốc nhận xét.
Trong bối cảnh đó, các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng đang giảm dần việc nới lỏng chính sách, theo tính toán của bà, đã có 65 lần tăng lãi suất, tạo áp lực điều hành cho Việt Nam trong thời gian tới. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) gần đây đã có cách tiếp cận thận trọng đối với chương trình mua tài sản của mình, trong khi các ngân hàng trung ương của Na Uy, Brazil, Mexico, Hàn Quốc và New Zealand đã có một cách tiếp cận thận trọng. tăng lãi suất.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng tại nghị trường sáng 12/11. Ảnh: Truyền thông Quốc hội
Đồng thời, nếu nhìn từ nhiệm vụ thứ hai của chính sách, theo Thống đốc, cũng cần phải thận trọng. Nợ xấu của các tổ chức tín dụng ngày càng gia tăng. Các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực của mình, không phải từ ngân sách. Khi nợ xấu tăng lên, các tổ chức cũng phải sử dụng các nguồn lực để xử lý.
“Nếu nguồn lực của tổ chức tín dụng suy giảm sẽ ảnh hưởng đến hoạt động và an toàn của hệ thống”, bà Hồng nói. Bài học từ cuộc khủng hoảng 2008-2009 theo bà vẫn là nếu không tính toán kỹ, nguy cơ lạm phát có thể quay trở lại.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo nỗ lực tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất nhưng phải đảm bảo an toàn cho từng tổ chức tín dụng và hệ thống. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan tính toán các gói hỗ trợ lãi suất hợp lý, trên cơ sở ổn định vĩ mô, phòng ngừa rủi ro lạm phát.
Đánh giá về việc thực hiện chủ trương từ đầu năm 2020, Thống đốc cho biết thêm, đại dịch đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã tích cực triển khai chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. chính quyền. Ngay từ đầu năm 2020, trong điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần cắt giảm lãi suất, từ 1,5-2%. “Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực”, bà Hồng nói.
Ngoài việc điều hành lãi suất, cơ quan điều hành cũng chỉ đạo, kêu gọi các tổ chức tín dụng giảm ngay cả các khoản vay cũ. Mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm 1,66% so với trước khi có dịch, với tổng lãi suất giảm khoảng 30.000 tỷ đồng. Các ngân hàng cũng giảm hơn 2.000 tỷ đồng phí cho khách hàng, góp phần giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và người dân.
Minh Sơn